Danh mục
Trang chủ >> Kỹ thuật hình ảnh >> Các ứng dụng của CNTT vào kỹ thuật hình ảnh y học.

Các ứng dụng của CNTT vào kỹ thuật hình ảnh y học.

1 Star2 Stars3 Stars4 Stars5 Stars (No Ratings Yet)
Loading...

Việc áp dụng CNTT vào trong y học, đã giúp nền y đạt dược rất nhiều thành tựu trong việc chăm sóc sức khỏe con người.

1. Ứng dụng CNTT trong X–quang (Teleradiology)

 

Việc trợ giúp chẩn đoán, lưu trữ tư liệu và nghiên cứu hình ảnh X quang là một trong những ứng dụng tin học phổ biến nhất trong các mạng PACS và Telemedicine. Việc chuyển tín hiệu từ máy chụp X quang lên phòng mổ Chấn thương chỉnh hình đã được nhiều nước áp dụng phổ biến, ở Việt Nam một số cơ sở đã áp dụng phương pháp này, việc ứng dụng này đã cung cấp cho phẫu thuật viên trong khi mổ có hình ảnh trực tiếp giúp cho việc mổ được tiến hành hiệu quả hơn, tốt hơn.

ky thuat hinh anh

2. Xử lý ảnh, nhận dạng ảnh trong chuyển đổi ảnh nội soi từ tín hiệu Analog sang Digital và hệ trợ giúp chẩn đoán :

Ngày nay, Nội soi dạ dày ở Việt Narn là kỹ thuật được sử dụng khá phổ biến ở các bệnh viện tuyến tỉnh, thành (2 phần 3 trong số các bệnh viện cấp tỉnh đã được trang bị máy nội soi và thực hành tốt kỹ thuật này. Tuy nhiên, các kỹ thuật nội soi tá tràng can thiệp, nội soi đại tràng bằng ống soi mềm hầu như chưa được triển khai ở Việt Nam. Các máy nội soi có cấu hình cao, số hoá được các tín hiệu ảnh và lưu trữ, truyền được ảnh nội soi còn hiếm ở nước ta.

Dưới đây là sơ đồ việc nghiên cứu nối ghép chuyển đổi thế hệ máy nội soi đời cũ tín hiệu ảnh Analog dùng phần mềm và ADC card chuyển đổi, nhận dạng, sang kỹ thuật ảnh số, phục vụ cho việc chẩn đoán của các chuyên gia y tế chính xác hơn.

Lợi ích của ứng dụng ảnh kỹ thuật số:

Với việc nối ghép máy vi tính với máy nội soi cùng phần mềm xử lý ảnh nhận dạng ảnh, cũng như phần mềm chẩn đoán trợ giúp đã tạo điều kiện thuận lợi cho nội soi dạ dày – tá tràng phát triển và hoàn thiện với nhiều ưu việt.

Giá thành chi phí về phim ảnh cho một bệnh nhân sẽ rẻ đi vì có thể lưu trữ ảnh rồi in trực tiếp trên máy in màu và cho ra kết quả ngay; có ảnh số chất lượng cao cho nhiều người cùng hội chẩn để chẩn đoán; có mạng nơ ron để thu nhận và nhận biết các triệu chứng tổn thương. Từ các triệu chứng của tổn thương này, kết hợp với mắt nhìn trực tiếp cảm nhận được, cùng với các triệu chứng lâm sàng và vị trí thương tổn từ ngoài đưa vào thông qua hệ trợ giúp chẩn đoán sẽ cho kết quả của máy tự chẩn đoán. Phần kết quả máy tự chẩn đoán này sẽ là phần trợ giúp đắc lực cho các vùng kinh nghiệm về nội soi này còn hạn chế. Với cơ sở dữ liệu và ảnh được lưu trữ lại trong máy giúp ta có cơ sở để so sánh giữa các lần soi khác nhau trên cùng một bệnh nhân và là nguồn dữ liệu quan trọng để nghiên cứu khoa học. Hơn nữa, với tương lai không xa việc nối mạng tới từng khoa phòng trong bệnh viện được thực hiện thì hệ nhận dạng ảnh nội soi là trợ giúp chẩn đoán nội soi này sẽ được truyền trên mạng cho các khoa phòng liên quan có thể cùng tham gia hội chẩn để thống nhất chẩn đoán bệnh.

3. Telemedicine:
Sử dụng Internet hoặc các mạng riêng của từng chuyên khoa như chấn thương, XQuang, hoặc giải phẫu bệnh… các ứng dụng của Telemedicine được tiến hành với nhau mục đích: trợ giúp chẩn đoán từ xa, truyền ảnh cho nhau giữa các mạng cục bộ, hội chẩn qua mạng, họp giao ban y tế qua mạng… các tài liệu được truyền có thể là văn bản, hình ảnh, âm thanh… Telemedicine ở Việt Nam chưa phát triển do cơ sở hạ tầng và chi phí đường truyền quá đắt, đường truyền trên Internet ở Việt Nam dùng hiện nay chỉ là đường truyền tốc độ thấp theo đường điện thoại công cộng PSTN (Public Swiched Telephone Network) giới hạn ở 64 Kbps, tương lai có thể dùng đường ISDN hoặc X25 của CPNET. Còn ở trên thế giới, các trung tâm kết nối với nhau bằng đường truyền tốc độ cao, hỗ trợ đọc phim hình ảnh y tế giữa các bệnh viện với nhau đặc biệt ở các nước phát triển Telemedicine sử dụng rất rộng rãi và có hiệu quả tốt.

– Chuyển ảnh giữa các chuyên khoa liên quan đến nhau:
Chạy tia Coban cần ảnh chính xác của CT Scanner, ảnh CT được đưa sang máy chạy tia qua mạng nội bộ để giúp cho việc điều khiển máy chạy tia Coban chính xác.

Khoa chấn thương cần ảnh chẩn đoán trên mạng bệnh viện của khoa X quang.

4. Trợ giúp chẩn đoán, điều trị và đào tạo chỉnh hình từ xa cho tuyến trước:

Hình ảnh X–Quang, hình ảnh lâm sàng lúc bệnh nhân vừa bị xảy ra tai nạn (dùng máy ảnh số chụp) từ địa phương khác nhau, các tuyến chuyên khoa khác nhau được truyền lên tuyến trên để xin ý kiến của các chuyên gia giỏi giúp cho việc chẩn đoán và xử trí được tốt ngay từ tuyến dưới (đây thực chất là một kiểu Telemedicine), chuyển tải ảnh qua hệ thống thông tin lưu trữ hình ảnh (PACS). Phương thức truyền ảnh có thể dùng Email với những nơi chưa có đường truyền tốt, hoặc trong tương lai dùng đường truyền trực tuyến qua đường X25 của chính phủ.

5. Kết luận :

Việc ứng dụng CNTT trong các thiết bị và máy y tế với các phần mềm chuyên dụng đã tạo ra bước phát triển đột phá trong việc ghi hình ảnh có chất lượng cao các cơ quan bị bệnh của cơ thể con người, giúp cho các chuyên gia y tế chẩn đoán bệnh khách quan hơn, nhanh chóng hơn và chính xác hơn nhiều. Với việc lưu trữ và truyền ảnh giữa các khoa, phòng trong bệnh viện và giữa các bệnh viện với nhau đã tạo ra phòng “Hội chẩn ảo”, góp phần quan trọng vào việc sử dụng trí tuệ tập thể, đặc biệt là trí tuệ của các chuyên gia y tế giỏi, chuyên gia đầu ngành trong chẩn đoán và điều trị bệnh cho mọi người bệnh ở nhiều vùng đất nước khác nhau, thậm chí giữa các nước khác nhau trên thế giới. ứng dụng và phát triển CNTT Y tế đang là một đòi hỏi bức xúc của Ngành Y tế Việt Nam, nhằm xây dựng nền y tế Việt Nam hiện đại, có công nghệ và kỹ thuật y học cao, đáp ứng được yêu cầu chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân.

        Nguồn : Trường Cao Đẳng Y Dược Pasteur

Có thể bạn quan tâm

Những kỹ thuật hình ảnh y học giúp chẩn đoán u não hiệu quả

Các kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh u não có vai trò quan trọng trong ...